Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng: Giảm áp lực lên ngân sách nhà nước
Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị định, đã xây dựng được nguồn tài chính đáng kể và bền vững phục vụ công tác bảo vệ, phát triển rừng, góp phần cải thiện sinh kế, ổn định đời sống của người làm nghề rừng. Cụ thể, nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng hằng năm đạt gần 30 tỷ đồng và được tái đầu tư cho các chủ rừng đang quản lý, bảo vệ 2/3 diện tích rừng trên toàn tỉnh. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh được thành lập và đi vào hoạt động đã làm tốt nhiệm vụ huy động các nguồn lực để phân phối cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, thực hiện chủ trương xã hội hoá nghề rừng. Từ đó nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đối tượng được hưởng lợi từ rừng, hiệu quả quản lý, sử dụng và bảo vệ rừng của các chủ rừng được nâng lên.
Qua 3 năm triển khai, nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương về công tác bảo vệ, phát triển rừng đã được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ che phủ diện tích tự nhiên của rừng tiếp tục tăng lên, các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được hạn chế. Đây là những kết quả bước đầu nhưng rất tích cực, là tiền đề cho người trồng rừng và bảo vệ rừng yên tâm, có sinh kế bền vững từ rừng và góp phần quan trọng trong xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương.
Đặc thù của các nhà máy thủy điện tại tỉnh là công suất nhỏ, chủ yếu do tư nhân đầu tư, các nhà máy nằm rải rác tại vùng sâu, cao, vùng có địa hình khó khăn. Nỗ lực lớn của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh trong thời gian qua là khắc phục những khó khăn này để triển khai có hiệu quả chính sách với 100% các đơn vị sản xuất thủy điện, sản xuất nước sinh hoạt đã ký kết hợp đồng ủy thác và thực hiện nộp tiền dịch vụ môi trường rừng. Nhờ việc đẩy mạnh tuyên truyền mà các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch bước đầu có nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội hóa nguồn quỹ dịch vụ môi trường rừng, tạo điều kiện trở lại cải tạo môi trường cảnh quan, đầu tư hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. Đến nay, công tác rà soát, xác định phạm vi ranh giới chủ rừng, phân loại, thống kê đối tượng sử dụng DVMTR của tỉnh cơ bản hoàn thành. Việc tổ chức giải ngân cho các chủ rừng đang được triển khai khẩn trương, hoàn thành chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng của năm 2012, 2013 đúng tiến độ.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh yêu cầu các ngành, địa phương và đơn vị có liên quan phối hợp tốt hơn nữa với Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng trong việc thực hiện có hiệu quả chính sách chi trả DVMTR. Bên cạnh đó, tham mưu cho UBND tỉnh cụ thể hoá các quy định, hướng dẫn liên quan đến các nguồn thu khác như dịch vụ hấp thụ các-bon, dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn con giống tự nhiên trong nuôi thủy sản, dịch vụ môi trường đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, cho thuê dịch vụ môi trường rừng. Trọng tâm là tập trung hoàn thành kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 bằng một số nhiệm vụ cụ thể như:
Thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức thực hiện của các bên liên quan trong thực thi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, giới thiệu và biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình có đóng góp lớn về lĩnh vực này.
Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ thuật, nghiệp vụ, nâng cao năng lực chuyên môn đội ngũ cán bộ, những người làm công tác triển khai thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Tạo sự đồng thuận trong phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương có liên quan trong rà soát, thống kê các đối tượng phải chi trả, đôn đốc các đối tượng ký kết hợp đồng và thanh toán đầy đủ tiền DVMTR theo đúng quy định. Cần gắn việc hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch thu tiền DVMTR với tiêu chí thi đua - khen thưởng hằng năm tại các địa phương.
Hồ thủy điện - nguồn sinh thủy được nuôi dưỡng từ rừng.
Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành và nghiệm thu dự án rà soát xác định phạm vi ranh giới chủ rừng, phân loại, thống kê đối tượng sử dụng DVMTR tỉnh. Trên cơ sở đó, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh phối hợp với các đơn vị liên quan nhanh chóng thực hiện thanh - quyết toán tiền DVMTR cho các chủ rừng theo đúng chế độ hiện hành.
Đồng thời, thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành thường xuyên giám sát công tác chi trả tiền DVMTR rừng, nhất là những chủ rừng là hộ cá thể, cộng đồng dân cư, tránh tình trạng thắc mắc, khiếu kiện liên quan đến công tác này.
Về chỉ tiêu, kế hoạch thu - chi tiền DVMTR hằng năm cần linh hoạt hơn, bám sát với tình hình thực tế để đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thu - chi tiền DVMTR do UBND tỉnh giao./.