Suy thoái kinh tế tác động đến các hộ gia đình
Theo đó, tỷ lệ vay nợ của người Malaysia là cao nhất, tương đương 196% so với thu nhập hằng năm của mình, cao hơn cả Hàn Quốc (166%). Vào năm 2003, tỷ lệ này tại Malaysia chỉ ở mức 125%. Tỷ lệ nợ ở Thái Lan là 112%. Tại Hàn Quốc, các hộ gia đình nghèo nhất cũng chính là các hộ có nguy cơ nợ nần chồng chất nặng nhất. Nợ của các hộ gia đình trong số 20% những người nghèo nhất tương đương 184% tổng thu nhập của họ vào năm 2012, tức là cao hơn 18 điểm so với mức trung bình của quốc gia. Tại Singapore, các hộ gia đình chịu tác động gián tiếp của việc giá cả bất động sản tăng vọt. Ở đảo quốc nhỏ bé này, hơn 80% người dân làm chủ bất động sản. Số người vay tín dụng để mua nhà đất đã tăng 78% từ năm 2008 đến 2012.
Bốn quốc gia đang gặp nguy cơ này có một tình trạng giống Mỹ vào năm 2008, thời điểm mà Mỹ có một tỷ lệ nợ trung bình của các hộ là 130%. Trong khi đó, một số nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines, tỷ lệ nợ rất thấp, dưới 35% vào năm 2012.
Nguyên nhân của sự gia tăng số nợ của các gia đình bốn nước nói trên là do trong một thời gian dài trước đó, các hộ được vay tín dụng dễ dàng để tiêu xài và do thói quen tậu nhà cửa của người châu Á khiến giá bất động sản tăng vọt. Thời gian gần đây, do kinh tế sa sút, các gia đình giảm chi tiêu, đặc biệt là hạn chế mua bất động sản, điều này lại tác động lên giá cả bất động sản, khiến thị trường này “vỡ bong bóng”, làm cho các hộ gia đình không có khả năng trả nợ hoặc kéo dài thời gian trả nợ.
Trong khi đó, một bản phân tích của hãng tin Mỹ AP về chi tiêu của các hộ gia đình ở 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Đức, Pháp, Mỹ, Anh, Brazil, Nga và Ấn Độ cho thấy họ đã rút 1.100 tỷ USD từ các quỹ đầu tư tương hỗ chứng khoán trong 5 năm sau khủng hoảng, tương đương với 10% cổ phần nắm giữ vào thời điểm đầu. Điều này cho thấy rằng các gia đình chi tiêu rất cẩn trọng và cắt giảm vay nợ.
Trong 5 năm trước khủng hoảng, nợ của các hộ gia đình ở 10 nền kinh tế lớn nhất tăng tới 34%. Khi giai đoạn khủng hoảng tài chính lên đến cao trào, mọi người bắt đầu phanh tốc độ vay nợ. Tỷ lệ nợ/người lớn ở 10 nước kinh tế phát triển giảm 1% trong 4,5 năm sau năm 2007. Các nhà kinh tế học cho rằng tỷ lệ vay nợ chưa từng giảm xuống đồng loạt như vậy, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho biết, nhằm tìm kiếm sự an toàn cho tiền bạc, nên các hộ gia đình ở 6 nền kinh tế phát triển nhất đã dành 3.300 tỷ USD, tương đương 15% cho các khoản tiền cất giữ trong 5 năm sau khủng hoảng, số lượng lớn hơn so với 5 năm trước khủng hoảng.
Để giảm nợ và tiết kiệm nhiều hơn, mọi người đã thắt chặt chi tiêu. Tốc độ chi tiêu của người tiêu dùng toàn cầu tăng 1,6% một năm trong 5 năm sau khủng hoảng. Mức này chỉ bằng một nửa tốc độ tăng trước thời kỳ khủng hoảng và cao hơn một chút so với tốc độ tăng dân số hằng năm trong giai đoạn này.
Tránh xa nợ nần và chi tiêu ít hơn có thể tốt cho tài chính của một gia đình. Nhưng khi hàng trăm triệu gia đình làm vậy thì nó có thể sẽ làm nền kinh tế toàn cầu bất ổn./.